Lợi ich của thực hành chánh niệm

1602

Chánh niệm là sự an trú tâm ý vào các thiện pháp, là sự nhớ nghĩ chơn chánh, đúng đắn, không bị các bất thiện pháp chi phối. Các niệm tưởng có chánh kiến, chánh tư duy được xem là chánh niệm.

Thanh Tịnh Đạo luận nói: Khi hành giả xa lìa bốn tà niệm thì gọi là an trú chánh niệm. Bốn tà niệm đó là:

1. Cho rằng thân thể là thanh tịnh, tốt đẹp đáng yêu chuộng, ưa thích trong khi thân thể vốn bất tịnh do các duyên giả hợp mà thành.

2. Cho rằng các cảm thọ (lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ) là thật nên tham đắm, mến tríu, hoặc chán ghét  v.v… Nhưng tất cả cảm giác, cảm nhận đều do duyên sinh không thực thể, không nhất định.

3. Cho rằng tâm thức là trường tồn, bất biến (chấp thường), trong khi tâm luôn thay đổi, vô thường.

4. Cho rằng vạn hữu là thật có, là hữu ngã, có thật tính trong khi thế giới sự vật hiện tượng là duyên sinh vô ngã, luôn chuyển biến, đổi thay.

Thường ngày chúng ta để cho tâm chúng ta rong chơi, chạy đuổi theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, chúng ta đánh mất chánh niệm. Bây giờ chúng ta ngồi lại tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền v.v… là chúng ta quay về với chánh niệm. Chúng ta không để cho tâm rong ruổi theo trần cảnh, không để cho tâm bị lôi cuốn, ràng buộc bởi các duyên mà để cho tâm an trụ vào các thiện pháp, để cho tâm thanh tịnh, sáng suốt, đó chính là sống trong chánh niệm. Nếu tụng kinh, niệm Phật mà để cho tâm lăng xăng, thân một nơi mà tâm một ngả, phan duyên, khởi phiền não thì cũng không phải là sống trong chánh niệm.

Người có chánh niệm biết rõ mình đang nghĩ gì, làm gì, đâu là việc làm đưa đến an lạc, hạnh phúc (hành động thiện), đâu là con đường đưa đến bất hạnh, khổ đau (hành động bất thiện). Người có chánh niệm ý thức rõ sự có mặt của mình và những người xung quanh trong từng thời khắc hiện tại, những gì đang diễn ra, ý thức được sự sinh diệt, vận hành của các pháp.

Người không có chánh niệm thường sống trong ảo tưởng, mơ hồ, bị trần duyên lôi cuốn, chạy đuổi theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp dẫn đến tạo nghiệp và cuối cùng là nhận lãnh khổ đau.

Khi tâm chúng ta không chạy đuổi theo trần cảnh, không bị ngoại duyên chi phối, bên trong không còn vọng động móng khởi theo pháp trần, không còn bám víu quá khứ, vọng tưởng tương lai thì lúc đó thực tại sống động sẽ hiện lên trước mắt.

Khi không có chánh niệm hoặc năng lực chánh niệm quá yếu, con người dễ dàng bị lôi cuốn bởi các pháp ác, bất thiện. Trong cuộc sống đời thường, các pháp ấy là: trộm cướp, tà dâm, rượu chè, cờ bạc, nghiện ngập xì ke ma túy, đố kỵ, ghen ghét, hơn thua tranh đấu, oán thù v.v… Lúc đó chúng ta hoàn toàn bị xâm chiếm về thể chất lẫn tinh thần. Chúng ta sẽ không còn tìm được niềm vui và hạnh phúc trên cuộc đời này, không còn thấy được ý nghĩa và giá trị của những gì trước mắt. Chánh niệm chính là nghệ thuật sống thiết thực.

Chánh niệm chẳng những là năng lực giúp chúng ta đạt được đời sống an lạc trong hiện tại mà còn dẫn đến thành tựu thiền định và trí tuệ giải thoát. Nhưng chúng ta thực hành chánh niệm như thế nào để đạt được điều đó?

Chúng ta thực hành chánh niệm về thân, về cảm thọ (vui, buồn, yêu thương, ghét muốn, hạnh phúc, khổ đau v.v…), về tâm ý (tham, sân, si, mạn v.v…), về đối tượng của tâm ý, tức các pháp (tất cả sự vật, hiện tượng tâm lý, sinh lý, vật lý).

1Trong kinh Niệm Xứ, số 10 thuộc Trung Bộ kinh, Đức Phật dạy các Tỳ kheo thực hành chánh niệm bằng pháp môn Tứ niệm xứ như sau:

1. Tỳ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

2. Tỳ kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

3. Tỳ kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

4. Tỳ kheo sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

Cũng tương tự như ở kinh Tứ Niệm Xứ, trong kinh Thân Hành Niệm, Đức Phật dạy về pháp quán thân trên thân có: quán niệm hơi thở vô, hơi thở ra, quán niệm các oai nghi của thân (đi, đứng, ngồi, nằm), và quán niệm các hoạt động của thân (đi tới, đi lui, ngó tới, ngó lui, làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ v.v… biết rõ việc mình đang làm, nhất cử nhất động đều tỉnh giác ý thức rõ ràng).

Về pháp quán niệm cảm thọ trên các cảm thọ, Đức Phật dạy trong bài kinh Tứ Niệm Xứ như sau: Khi cảm giác lạc thọ, chúng ta tuệ tri lạc thọ, khi cảm giác khổ thọ, chúng ta tuệ tri khổ thọ và khi có cảm giác bất khổ bất lạc thọ (cảm giác trung tính, không khổ không vui) thì tuệ tri bất khổ bất lạc thọ v.v… Ta sống an trú chánh niệm, không chấp trước và biết rõ sự sanh khởi, diệt tận của các thọ, biết rõ các thọ thuộc vật chất hay không thuộc vật chất v.v…

Về pháp quán tâm trên tâm, Đức Phật dạy: Khi tâm có tham, sân, si, chúng ta tuệ tri tâm có tham, sân, si; khi tâm không có tham, sân, si, chúng ta tuệ tri tâm không có tham, sân, si. Khi tâm định tĩnh ta tuệ tri tâm định tĩnh; khi tâm tán loạn ta tuệ tri tâm tán loạn. Chúng ta thường tỉnh giác, chánh niệm, biết rõ sự sanh diệt, hiện hành của tâm.

Về pháp “quán pháp trên các pháp”, Đức Phật dạy:

– Đối với năm triền cái (dục tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi), chúng ta tuệ tri rõ ràng trong nội tâm có mặt hay không có mặt năm triền cái, tuệ tri rõ ràng sự sinh khởi và đoạn diệt của năm triền cái.

– Đối với Ngũ uẩn, chánh niệm tỉnh giác trước sự tập khởi và đoạn diệt của sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Đối với sáu nội xứ, ngoại xứ, tuệ tri sự sanh khởi và đoạn diệt của các kiết sử khi sáu nội xứ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và sáu ngoại xứ (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) tiếp xúc, duyên với nhau.

– Đối với Thất giác chi, tuệ tri rõ ràng nội tâm có hay không có niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả giác chi, Thất giác chi sanh khởi và được tu tập viên mãn như thế nào.

Đối với Tứ Thánh đế, như thật tuệ tri đây là khổ, đây là khổ tập (nguyên nhân của khổ), đây là khổ diệt (sự chấm dứt khổ) và đây là khổ diệt đạo (con đường đưa đến khổ diệt).

Minh Đức