Tịnh nhiễm do Tâm(*)

740

Trong đạo Bụt nguyên thủy có kinh Đại Thiện Kiến Vương. Kinh này cũng có trong tạng Pàli. Đọc kinh này, ta thấy khung cảnh rất giống khung cảnh kinh A Di Đà ở trong truyền thống Bắc Phạn. trong kinh này cũng có nói đến “Thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thọ…” và “hoa sen lớn như bánh xe”. Cảnh tượng giống hệt như cảnh Tịnh độ ở kinh A Di Đà.

Hồi đó Bụt sắp tịch, thầy trò đang đi lên miền Bắc. Có lẽ Bụt muốn trở về thành Ca Tỳ La Vệ để nhập diệt, nhưng khi tới được thành Câu Thi Na thì Bụt nghĩ rằng mình nhập diệt nơi đây cũng được. Đây chỉ là một thành phố nhỏ. Thầy A Nan yêu cầu Ngài đừng nhập diệt ở đây, đợi tới một thành phố nào thật đẹp mới nên nhập diệt. Đó là chiến thuật của thầy A Nan. Thầy muốn Bụt chậm nhập diệt giờ phút nào thì quý giờ phút đó. Thầy A Nan thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, thành phố Kusinagara này nhỏ xíu, phần nhiều nhà cửa được làm bằng nền đất tường vôi. Đức Thế Tôn đừng nhập diệt ở đây. Đức Thế Tôn, xin Ngài đợi đến một thành phố nào lớn hơn và đẹp hơn rồi hãy nhập diệt”. Bụt cười và nói: “Thầy đừng tưởng rằng thành phố này không đẹp. Ngày xưa, thành phố này đã từng là một Tịnh độ. Ta đã từng ở thành phố ấy”. Và Đức Thế Tôn tả cho thầy A Nan nghe về những nét đẹp đẽ, phồn vinh và hạnh phúc của quốc độ Câu Thi Vương ngày xưa của vua Đại Thiện Kiến. Những điều này đã được ghi chép trong kinh Đại Thiện Kiến Vương – kinh số 68 của bộ Trung A Hàm. Quý vị sẽ thấy là trong kinh A Di Đà cũng có những chi tiết giống hệt kinh Đại Thiện Kiến Vương.

Trong tạng Pàli, kinh này tên là Mahàssudarsana, nằm trong Trường Bộ số 17. Kinh có ghi lời thưa của thầy A Nan: “Bạch Đức Thế Tôn, có những thành phố lớn khác như thành Vương Xá, Xá Vệ, Ba La Nại… Tại sao Đức Thế Tôn không nhập diệt nơi các thành phố ấy mà Ngài lại quyết định nhập diệt ở nơi thành phố nhỏ hẹp này – một thành phố nhỏ hẹp nhất trong các thành phố?”.

Đức Thế Tôn nói: “Này A Nan, thầy đừng nói rằng đây là một thành phố nhỏ hẹp. Thuở quá khứ, thành Câu Thi Na này có tên là Câu Thi Vương, giàu có cùng tột, dân chúng đông đúc. A Nan, thành Câu Thi Vương dài mười hai do diên, rộng bảy do diên. Ở đây, người ta đã dựng lên các tháp cao bằng một người, hai, ba, bốn cho đến bảy người. Này A Nan, thành Câu Thi Vương ở bên ngoài có bảy lớp hàng rào bao bọc, rào được xây bằng gạch với bốn loại châu báu là vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh; bảy lớp hào thì được rải bằng cát với bốn lớp châu báu là vàng bạc, lưu ly và thủy tinh.

Này A Nan, Câu Thi Vương được bao bọc bởi bảy lớp  tường thành. Ở ngoài các lớp tường thành ấy, cũng được xây dựng bằng bốn lớp châu báu vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Này A Nan, thành Câu Thi Na cũng được bao bọc bởi bảy lớp cây đa la.  Các cây ấy được dựng bằng bốn lớp châu báu; cây đa la bằng vàng thì hoa, lá, trái bằng bạc; cây đa la bằng bạc thì hoa, lá, trái bằng vàng; cây đa la bằng thủy tinh thì hoa, lá, trái bằng lưu ly và hoa, lá, trái bằng thủy tinh thì cây đa la bằng lưu ly.

Này A Nan, khoảng giữa cây đa la có đào những ao hoa. Trong các ao ấy có trồng các loại thủy hoa như hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen trắng, hoa sen hồng. Bờ ao hoa ấy có đắp bốn loại châu báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Ở đây, ao hồ trải cát bằng bốn loại châu báu vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh. Trong các ao ấy, có thềm cấp bằng bốn loại châu báu vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Này A Nan, các ao ấy được màn che ở dưới, có chuông lắc ở giữa, bốn loại châu báu là vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh; chuông bằng bạc thì quả lắc bằng vàng và chuông bằng vàng thì quả lắc bằng bạc”.

Nói tóm lại, ở trong kinh này, ta thấy có những chi tiết về những vẻ đẹp của Tịnh độ. Các vị Tổ sư đã có nhiều tác phẩm chú giải kinh A Di Đà và nhiều tác phẩm diễn giải rất sâu sắc. Chúng ta có thể thừa hưởng được những bộ sách diễn giải đó.

Ở Làng Mai, chúng ta hãy học hỏi và thực tập kinh A Di Đà theo phương pháp thiền quán hiện pháp lạc trú để đừng bị chìm đắm, dù là chìm đắm trong những lý thuyết thậm thâm vi diệu. Chúng ta học hỏi và áp dụng kinh A Di Đà trong đời sống tu tập hàng ngày của chúng ta, học hỏi và thực tập như thế nào để có hạnh phúc, an lạc, vững chãi và thảnh thơi, để Đức A Di Đà và cõi Tịnh độ có thể có mặt trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì vậy, trong những buổi giảng về kinh A Di Đà, tôi sẽ không sử dụng những tác phẩm diễn giảng của các vị Tổ sư đi trước. Chúng ta hãy học kinh A Di Đà bằng nhãn quan mới, chúng ta nhìn giáo lý của kinh A Di Đà bằng cách nhìn của đạo Bụt nguyên thủy.

Ta nên biết rằng niềm ao ước sâu  xa nhất của con người là tìm ra được môi trường sống có an ninh, tình thương và sự hiểu biết. Tất cả chúng ta đều có mong ước có một môi trường như vậy. Các Đức Bồ tát, các Đức Thế Tôn cũng thấy được ước muốn của chúng ta và của mọi loài chúng sanh. Cho nên, bất cứ ai mà thực tập một cách thông minh và vững chãi đều nghĩ tới sự thành lập những môi trường như vậy, để mình tự nuôi dưỡng mình, và để mình có thể nuôi dưỡng những người khác. Vì vậy, ý hướng thành lập Tịnh độ là tâm niệm của tất cả những người tu học. Trong chúng ta, người đã tu lâu năm hay người mới tu cũng vậy, ai cũng ao ước thiết tha là làm thế nào để lập ra một khung cảnh trong đó chúng ta được sống có thầy, có bạn, có an ninh, được che chở, được thương yêu và có điều kiện đi tới trên con đường thành tựu đạo nghiệp và chuyển hóa khổ đau.

Kinh A Di Đà cũng nằm trong viễn tượng đó. Đức A Di Đà là người đã từng tu học và cũng đã có ước vọng đó, nên Ngài đã tạo ra một khung cảnh có an toàn, có tình thương, có những điều kiện để học tập. Người chủ trương Tịnh độ là Bụt A Di Đà, khung cảnh có tên là Cực Lạc. Chúng ta, ai cũng ôm ấp ước muốn ấy. Chúng ta cũng muốn lập ra một khung cảnh để an trú, để có nơi đón tiếp những người bạn của mình, những người thương của mình, mời họ đến đó để cùng chung sống, cùng tu học, cùng hưởng được sự có mặt của vững chãi, thảnh thơi, tình thương và sự an lạc. Tuy nuôi dưỡng tâm niệm đó, nhưng có khi chúng ta không có nhiều may mắn. Chúng ta chỉ lập ra được một cơ sở, rồi chúng ta bị mắc kẹt và chạy theo cơ sở ấy. Chúng ta mất hết thì giờ để xây dựng cơ sở, nhưng chúng ta lại không tạo ra được một nội dung cho cơ sở đó. Nghĩa là tạo ra được sự an lạc, hòa hợp và thanh tịnh của một Tăng thân. Nếu ta không tạo được một khung cảnh có nội dung như vậy, thì ta chỉ là người làm nô lệ cho khung cảnh mà thôi. Chúng ta phải chạy kiếm tiền để tiếp tục duy trì và phát triển cái vỏ của những cơ sở ấy, rốt cuộc ta không có thì giờ để chăm sóc cho bản thân ta và cho những người đến với ta. Từ khởi điểm thì bản nguyện ta cùng bản chất với bản nguyện của Đức A Di Đà, nhưng sau đó chúng ta bị lầm lạc – lầm lạc đi sang một nẻo khác, đó là nẻo làm chùa. Việc làm chùa khiến chúng ta trở thành một người bận rộn nhất trên đời. Ta mất hết thảnh thơi, mất hết an lạc và bản hoài ban đầu của ta, ta không thực hiện được. Xây dựng và kiến thiết Tịnh độ là hoài bão của tất cả chúng ta. Nhưng ta phải khéo léo lắm mới xây dựng được một Tịnh độ, nếu không ta sẽ đánh mất bản thân của ta. Trú xứ ta xây dựng phải có chất liệu an tịnh ta mới gọi nó là Tịnh độ được. Khung cảnh này mà chúng ta muốn tạo lập ra phải có chất liệu “Tịnh” của nó. Tịnh tức là không có sự ô nhiễm. Sự ô nhiễm nào? Trước hết, ta gọi tên nó là sự bận rộn. Chúng ta bận rộn quá, bận rộn về chuyện đi cúng, làm đám và xây cất. Chúng ta đâu có thì giờ để tu học, đâu có thì giờ chăm sóc cho nhau, đâu có thì giờ thương nhau. Có sự bận rộn là không có tịnh, tức là nhiễm. Cõi của ta là uế độ, không phải Tịnh độ. Chúng ta để tiền bạc thống trị chúng ta, chúng ta để tiền bạc và quyền lực của nó chi phối chúng ta. Ở trong khung cảnh đó, người nào cũng muốn làm lớn, cũng muốn có uy quyền với những người khác, người nào cũng muốn có tiền bạc. Cõi đó đâu còn là cõi Tịnh độ nữa. Vì trong khung cảnh đó, ta chỉ thấy có sự ganh tỵ, giận hờn và sợ hãi. Tất cả những yếu tố ấy đều là bất tịnh. Những gì làm ô nhiễm môi trường thì ta gọi là bất tịnh. Ban đầu thì tâm chúng ta rất tốt; ta muốn tạo ra một cõi Tịnh độ. Nhưng vì thiếu khéo léo, thiếu chánh niệm mà chúng ta đã tạo ra một cõi uế độ. Bận rộn là yếu tố làm hư hoại sinh môi của chúng ta, làm ô nhiễm môi trường sống của chúng ta. Ô nhiễm tiếng Pháp là pollution. Khi tới một đạo tràng, như đạo tràng Làng Mai, chúng ta thử hỏi đạo tràng Mai Thôn có ô nhiễm không? Nơi đó có chuyện tranh giành quyền bính không? Người ta có suốt ngày lo chuyện tiền bạc, người ta có bận rộn về chuyện tổ chức quá không? Người ta có thì giờ để tu học, người ta có thì giờ để thương nhau, để chăm sóc cho nhau không? Người ta có ganh tỵ, giận hờn và sợ hãi nhau không? Người ta có sống an lạc không? Tất cả những câu hỏi đó ta có thể trả lời được. Nhờ sự tu tập, nhờ sự quyết tâm của ta mà ta giữ được khung cảnh thanh tịnh – khung cảnh của sự không ô nhiễm. Đó là Tịnh độ. Cõi của ta có thể là Tịnh độ hay uế độ, điều đó tùy thuộc theo tâm niệm của những người sống ở trong cõi đó. Chúng ta có quyền và có khả năng tạo ra một Tịnh độ để sống với nhau, chăm sóc nhau, thương yêu nhau, giúp cho nhau tu học và chuyển hóa. Chúng ta cũng có quyền tạo ra một uế độ, trong đó sự giành giật, sự ganh tỵ, sự sợ hãi, tiền bạc và quyền lực đóng vai trò then chốt.

Thiền sư Nhất Hạnh

 __________

(*) (Trích Thiết lập Tịnh độ, Nhất Hạh, NXB Tôn Giáo, Hà Nội – 2004, tr.12-19)